1 thg 11, 2011

Lý thuyết sóng ELLIOTT và dãy số FIBONACCI

Lý thuyết sóng Elliott

Nguyên tắc sóng Elliott là 1 trong những công cụ phân tích kỹ thuật mà 1 số nhà kinh doanh chứng khoán dùng để phân tich những xu hướng giá trong các thị trường tài chính. “ Cha đẻ ”của nguyên tắc này là Ông Ralph Nelson Elliott ( 1871-1948). Nghề chính của Ông là kế toán và Ông đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế kỷ trước. Theo Ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những con sóng. . Trong đó 1 con sóng cơ bản sẽ có 5 con sóng chủ và 3 con sóng điều chỉnh. Trong mỗi 1 con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo qui luật của lý thuyết Elliott. 1 đợt sóng chủ hoàn chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hoàn chỉnh có 55 sóng.

Dãy số Fibonacci
Dãy số do nhà toán học người Italya Leonardo Fibonacci ( 1175-1250)phát minh ra. Bắt đầu là số 0 và số 1, sau đó là những con số kế tiếp được tạo thành bằng cách cộng 2 số đứng trước
Quan trọng hơn với chúng ta, những nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán, vàng, ngoại hối…những con số đầy ma lực trên xuất hiện ngay trong thị trường tài chính, nhất là biên độ giao động giá cả…

Ralph Nelson Elliott khẳng định rằng, ông nghiên cứu và phát minh ra lý thuyết sóng trước khi biết Fibonacci. Nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lạ : 5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở xung quanh các tỷ lệ Vàng 0.618, 1.618, 0.328…do đó có 1 giả thuyết cho rằng Elliott đã ứng dụng Fibonacci vào lý thuyết của mình.



Lý thuyết sóng Elliott
Theo Ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những con sóng, như hình vẽ bên. Trong đó 1 con sóng cơ bản sẽ có 5 con sóng chủ và 3 con sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số 1,3,5 gọi là sóng chủ, và sóng 2,4 là sóng điều chỉnh. 2 con sóng điều chỉnh được gọi là sóng ABC.
Trong mỗi 1 con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo qui luật của lý thuyết Elliott. 1 đợt sóng chủ hoàn chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hoàn chỉnh có 55 sóng.
Tùy theo độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau :Grand supercycle : sóng kéo dài nhiều thập kỷ, thế kỷ…Supercycle : Vài năm đến vài thập kỷ,Cycle : 1 đến vài năm,Primary : vài tháng đến vài năm,Intermediate : Vài tuần đến vài tháng,Minor : vài tuần,Minute : vài ngày,Minuette : vài giờ,Subminutte : vài phút.


Dãy số Fibonacci
Dãy số do nhà toán học người Italya Leonardo Fibonacci ( 1175-1250)phát minh ra. Bắt đầu là số 0 và số 1, sau đó là những con số kế tiếp được tạo thành bằng cách cộng 2 số đứng trước…0.1.1.2.3.5.8.13.21.34.55.89.144.233.37 7……
Điều kỳ diệu xảy ra là : số sau chia cho số đứng trước luôn bằng 1.618
Số trước chia cho số đứng sau luôn bằng 0.618.
Số trước chia cho số đứng sau 2 vị trí luôn bằng 0.382
…và rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra khi nhân chia các số trong dãy số Fibonacci.
Tất cả các con số trong dãy số Fibonacci 1.2.3.5.8.13.21…..và tỷ lệ 0.618 và 1.618 và 0.382 xuất hiện rất nhiều trong tự nhiên, trong vũ trụ, kiến trúc, xây dựng,….
Quan trọng hơn với chúng ta, những nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán, vàng, ngoại hối…những con số đầy ma lực trên xuất hiện ngay trong thị trường tài chính, nhất là biên độ giao động giá cả…
Ralph Nelson Elliott khẳng định rằng, ông nghiên cứu và phát minh ra lý thuyết sóng trước khi biết Fibonacci. Nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lạ : 5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở xung quanh các tỷ lệ Vàng 0.618, 1.618, 0.328…do đó có 1 giả thuyết cho rằng Elliott đã ứng dụng Fibonacci vào lý thuyết của mình.
Một dãy sóng 5-3 điển hình trong thị trường “Bò húc”

(Xem thêm sai lầm thứ 13 – sai lầm khi nhảy sóng tại đây)
Dưới đây là phân tích 1 con sóng 5-3 điển hình của thị trường tăng trưởng “ Bò húc”…con sóng này vẽ trong thị trường suy thoái “ Gấu ngủ” hoàn toàn ngược lại.
Sóng chủ số 1 : đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị trường con gấu( suy thoái), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này các thông tin vẫn đang tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi xảy ra sóng 1 vẫn là thị trường suy thoái.
Những nhà phân tích cơ bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự kiến. Khối lượng giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này không đáng kể. Do đó ít nhà phân tích nhận ra con sóng số 1 này ngay từ đầu.
-Sóng chủ số 2 : là con sóng sóng điều chỉnh con sóng số 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ thấp hơn điểm xuất phát của sóng 1. Tin tức thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc kiểm tra độ thấp của thị trường. Những người theo xu hướng xuống vẫn tin rằng thị trường vần đang thời kỳ ‘ con gấu’. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm thường nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức sóng 1.
- Sóng chủ số 3 : thông thường đây là con sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng tăng giá. Khi thị trường bắt đầu nhận thấy xu hướng đi lên do những thông tin phân tích cơ bản tích cực ngày càng rõ nét. Mặc dù có những sóng nhỏ điều chỉnh ngay trong lòng sóng 3, nhưng biên độ sóng 3 tăng lên khá nhanh và rõ nét. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn sóng 1 với tỷ lệ 1.618 lần.
- Sóng chủ số 4 : đây thật sự là con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và đôi khi răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 theo tỷ lệ 0.382 đến 0.618 . Khối lượng giao dịch sóng 4 ít hơn sóng 3. Đây là thời điểm mua vào khi nhà kinh doanh nhận biết được xu hướng tiếp theo sau đó là con sóng số 5. Tuy vậy việc nhận biết điểm dừng của sóng số 4 khó nhận biết là sẽ xuống bao nhiêu.
- Sóng chủ số 5 : Đây là đợt sóng cuối cùng của con sóng chủ. Thông tin tích cực đang tràn lan thị trường. Khối lượng giao dịch khá lớn. Tuy vậy sóng 5 thường nhỏ hơn sóng 3 .
Điều đáng nói là các nhà kinh doanh không chuyên nghiệp thường mua vào ở thời kỳ cuối sóng 5 vì lúc này thông tin rất tốt. Vào cuối con sóng 5 , thị trường nhanh chóng chuyển hướng.
+ Sóng điều chỉnh A : sóng này thường bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn rất lạc quan. Mặc dù giá xuống , nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng : thị trường đang trong thế Bò húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A.
+ Sóng điều chỉnh B : Giá tăng trở lại và với mức cao hơn đáy sóng A, sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường Bò húc. Đối với người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải của đồ thị đầu vai ngược. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn của sóng A. Lúc này, những thông tin cơ bản của các công ty không có những điểm tích cực mới, thế nhưng chưa chuyển sang tiêu cực.
+ Sóng điều chỉnh C : giá có xu hướng giảm mạnh hơn các đợt sóng trước. Khối lượng giao dịch tăng, Hầu như mọi nhà kinh doanh đều nhận ra xu hướng xuống của thị trường Gấu ngủ. Sóng C thường lớn như sóng A, điểm dừng của sóng C thường bằng 1.618 lần đáy của sóng A.
Thị trường gấu ngủ cũng tương tự, nhưng theo chiều ngược lại…


(ST - Tú Uyên)

Bài viết kì tới: Các loại Fibonacci và cách sử dụng để xác định vùng kháng cự và hỗ trợ.

2 nhận xét:

  1. Em viết như vậy anh thấy đối với một người chưa có kiến thức phân tích biểu đồ khó hiểu quá,hay em viết từ cơ bản đi nhá? đưa cả biểu đồ vào nữa. Anh cũng mún học, và tới có nhiều thời gian anh sẽ tìm hiểu từ cơ bản.hj

    Trả lờiXóa
  2. Anh đọc từ đầu ở đây nè theo thứ tự từng phần nha:
    http://doanhnhanxahoi.blogspot.com/2011/11/lua-chon-con-uong-au-tu.html

    Trả lờiXóa